Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

Giải tỏa phiền toái của PC

Trong khi làm việc với máy tính, thỉnh thoảng bạn gặp phải những điều khó chịu, phiền toái về đủ thứ: phần cứng, phần mềm và những thứ linh tinh khác. Có những điều dù nhỏ nhặt nhưng nếu không khắc phục bạn cảm thấy hơi bị 'quê'. Những thủ thuật, phương pháp trong bài này có khi rất đơn giản như cắm chắc lại cáp nối nhưng cũng có khi phải dùng đến đồ nghề chuyên dụng. Hy vọng máy tính của bạn sẽ luôn dễ chịu và làm việc trơn tru.

Windows ì ạch? Phần cứng 'đi tong'? Phần mềm dở chứng? Hãy bình tĩnh - thử dùng cẩm nang sơ cứu này xem.Trong khi làm việc với máy tính, thỉnh thoảng bạn gặp phải những điều khó chịu, phiền toái về đủ thứ: phần cứng, phần mềm và những thứ linh tinh khác. Có những điều dù nhỏ nhặt nhưng nếu không khắc phục bạn cảm thấy hơi bị 'quê'. Những thủ thuật, phương pháp trong bài này có khi rất đơn giản như cắm chắc lại cáp nối nhưng cũng có khi phải dùng đến đồ nghề chuyên dụng. Hy vọng máy tính của bạn sẽ luôn dễ chịu và làm việc trơn tru.
Windows gãy cánhDù thích hay ghét, Windows vẫn có mặt trên bàn làm việc của chúng ta từ lâu và dường như vẫn còn chiếm lĩnh vùng đất này một thời gian dài nữa. Vậy hãy học cách không chỉ 'sống chung với Windows' mà còn phải trị được nó.
Đẩy nhanh trình đơnTT (trục trặc): Trước đây máy tính của tôi chạy rất nhanh nhưng sao bây giờ các trình đơn hiện ra rất chậm?GQ (giải quyết): Trong Windows 98, Me và 2000, bạn nhấn phải chuột lên màn hình desktop và chọn Properties.Effects. Bỏ chọn Animate windows.menus and lists (Windows 98) hay Use transition effects for menus and tooltips (Me và 2000). Trong XP, nhấn phải chuột lên màn hình desktop, chọn Properties.Appearance.Effects, và bỏ chọn Use the following transition effect for menus and tooltips (xem hình 1). Bạn thử lại xem trình đơn còn 'rùa bò' không.
Hiển thị toàn bộ tài liệu, văn bản gần đây

TT: Thư mục Documents trong trình đơn Start (My Recent Documents trong Windows XP) cho phép nhanh chóng mở lại những tập tin vừa truy cập gần đây nhưng Windows chỉ liệt kê 15 tài liệu gần nhất và xóa những tài liệu cũ đi.
GQ: Để truy cập được nhiều tập tin hơn mà bạn mới làm việc gần đây, hãy tạo đường dẫn cho Documents (hay My Recent Documents) ngay trên màn hình desktop. Tìm đến thư mục Recent trong Windows Explorer (vị trí của thư mục này thay đổi tùy phiên bản Windows; ví dụ C:\Documents and Settings\username\Recent). Nhấn phải chuột và kéo biểu tượng của thư mục này vào màn hình desktop. Thả nút phải chuột và chọn Create Shortcut(s) Here (XP không có ngoặc đơn). Khi mở thư mục ứng với đường dẫn này chắc bạn sẽ hết phàn nàn vì toàn bộ những tập tin mà bạn có 'chọc ngoáy' vào kể từ lần cuối cùng bạn xóa danh sách này đều có mặt.
Để tiện lợi, bạn nên thường xuyên xóa những đường dẫn hay tập tin không còn cần thiết nữa; mặt khác bạn cũng có thể sắp xếp danh sách này theo tên hay ngày sửa đổi bổ sung bằng cách nhấn chuột vào các cột tương ứng (Name hay Date Modified). Để thuận tiện hơn nữa, bạn nhấn phải chuột lên cột Name và bỏ chọn loại tập tin và dung lượng (Type và Size); hai cột này đều không cần thiết vì toàn bộ danh sách đều là đường tắt có dung lượng 1KB. Để tiện lợi hơn nữa, bạn có thể tải về tiện ích quản lý các loại tập tin trong thư mục này của Lincoln Spector tại địa chỉ http://ftp.pcworld.com/pub/printmag/08fregistry_batch3.zip.
Xoá sổ cửa sổ tác vụ của ExplorerTT: Cửa sổ tác vụ bên trái của màn hình thư mục trong Windows XP đầy những liên kết và hướng dẫn tự động 'linh tinh' nên bạn thường nhấn nút Close 'X' ở góc cao bên phải của cửa sổ Search hay Folder để hiển thị cửa sổ tác vụ; nhưng có lúc ví dụ trong My Network Places cửa sổ tác vụ này lại không hiển thị.GQ: Thực ra đây là chuyện rất nhiều người gặp phải vì chúng ta thường vô tình chuyển chế độ hiển thị của Folder về 'kiểu' của Windows 98 hay 'cổ điển'. Lỗi này rất dễ xảy ra và cũng rất dễ sửa: Chọn Tools.Folder Options, và chọn Show common tasks in folders trong thẻ General. Nhấn OK, và cửa sổ bên trái của màn hình thư mục lại sẽ có mặt những liên kết mà bạn cần.
Tuyến cao tốc để tìm tập tinTT: Việc sao chép đường dẫn và tên thư mục để dán vào email hay hộp thoại lưu tập tin đôi lúc gây khó chịu.GQ: Cách nhanh nhất là mở Windows Explorer, chuyển đến thư mục cần thiết, nhấn vào thanh địa chỉ (address bar) để kích hoạt và nhấn <Ctrl>-C. Thế là đường dẫn đã 'chui vào' bộ nhớ đệm (clipboard). Nếu không thấy thanh địa chỉ ư? Hãy chọn View.Toolbars.Address Bar.
Mất công cụ khởi động nhanh Quick Launch TT: Trong quá trình làm việc với Windows Explorer, thỉnh thoảng bạn xóa mất thanh công cụ khởi động nhanh Quick Launch và bối rối vì không biết cách nào để lấy lại.GQ: Quả thật hơi lạ là Quick Launch thỉnh thoảng có thể bị mất, tuy nhiên việc phục hồi lại rất dễ: nhấn phải chuột lên phần trống trên thanh công cụ và chọn Toolbars.Quick Launch. Thủ thuật: Để chặn những thông báo màu vàng về thông tin của tập tin hãy mở Windows Explorer, chọn Tools.Folder Options.View, và bỏ chọn Show pop-up description for folder and desktop items.
Nạp lại chương trình Start-Up mà không khởi động lạiTT: Thỉnh thoảng bạn đóng chương trình trên khay hệ thống và không tìm thấy chương trình này trong trình đơn Start. Phiền hơn nữa là chương trình chạy lúc khởi động máy nên hình như chỉ có cách phải khởi động lại máy tính!GQ: Nhấn Start.Programs (All Programs trong Windows XP).Startup. Nếu phím tắt cho chương trình có sẵn trong trình đơn này thì quá tốt; bạn chỉ việc nhấn vào đó và thế là chương trình lại có mặt. Không có ở đó ư? Không sao: Chọn Start.Programs [All Programs trong XP].Accessories.System Tools.System Information. Trong khung bên trái của hộp thoại System Information, nhấn đúp chuột lên mục Software Environment và chọn Startup Programs. Khung hình bên phải sẽ liệt kê toàn bộ chương trình khởi chạy lúc bạn khởi động máy. Khi tìm thấy chương trình cần tìm trong danh sách này bạn hãy chọn nó và nhấn <Ctrl>-C để sao toàn bộ dòng thông tin này.
Nếu bạn có thể copy trực tiếp lệnh cần thiết từ trong System Information thì quá tốt, nếu không bạn phải copy nguyên cả dòng. Trong trường hợp dùng Windows 2000, bạn không thể dùng tổ hợp <Ctrl>-C để copy mà chỉ có thể nhấn phải chuột, chọn Save As Text File, đặt tên tập tin là restart (hay tên gì đó tùy ý bạn) và nhấn Save. Mở tập tin văn bản vừa tạo ra, nhấn <Ctrl>-A để chọn và nhấn <Ctrl>-C để copy.Nhấn chuột vào Start.Run và nhấn <Ctrl>-V để dán dòng lệnh này vào vùng Open của hộp thoại Run. Bạn nhớ xóa những ký tự không cần thiết trước và sau lệnh thực thi và nhấn Enter. Chương trình được nạp lại và biểu tượng của nó sẽ xuất hiện trên khay hệ thống.
Thuần phục E-MailKhuynh hướng chung hiện nay của người dùng văn phòng dường như dành nhiều thời gian cho e-mail hơn là điện thoại. Tuy nhiên khó có thể nói rằng việc này luôn luôn cho hiệu quả tốt hơn. Thử những thủ thuật sau để tăng tính hiệu quả.
E-Mail gửi cho nhiều ngườiTT: Thật là phản cảm khi vùng nhận 'To: ' dài dằng dặc, có khi còn hơn cả nội dung trong thư!GQ: Nếu muốn gửi e-mail cho nhiều người, bạn có thể giấu danh sách người nhận bằng cách dùng vùng 'mù' Blind Copy (Bcc). Hãy gửi đến địa chỉ của chính mình hay để trống vùng 'To:'; bạn nên lưu ý là một số bộ lọc thư quấy rối sẽ cấm e-mail có vùng 'To:' để trống. Để hiển thị vùng Bcc, bạn chọn View.All Headers trong Outlook Express, View.Bcc Field trong Outlook và To:, Bcc trong Netscape. Đối với Eudora, Bcc theo mặc định là hiển thị.
Đường tắt đến Out-Box

TT: Bạn thường xuyên liên lạc bằng e-mail với một số người nhưng trình e-mail lại không có phím tắt để đơn giản hóa việc gửi thư cho người nhận.GQ: Nhấn phải chuột vào màn hình desktop và chọn New.Shortcut. Sau đó gõ mailto: tennguoinhan@hisISP.com trong dòng lệnh (Windows 98 và Me) hay hộp thoại định vị trong Windows 2000 và XP (hình 2). Nhập địa chỉ e-mail của người nhận ngay sau'mailto:'. Nhấn Next, đặt tên cho phím tắt và đưa nó vào thanh công cụ Quick Launch. Khi bạn nhấn vào phím tắt này, trình e-mail sẽ mở thư mới với địa chỉ người nhận đã có sẵn trong vùng 'To:'.
Đau đầu vì IE TT: Internet Explorer 6 thường đưa thêm thông báo 'Your files are attached and ready to send with this message' vào trong từng thông điệp mà bạn gửi khi nhấn File.Send.Link by E-mail. Điều phiền toái là IE đưa dòng subject 'Emailing:', sau đó là một phần của văn bản liên kết và bạn không thể can thiệt được vào phần subject.GQ: Một tập tin Registry sẽ thêm tùy chọn 'Email Page'  khi bạn nhấn phải chuột lên IE. Hãy vào find.pcworld.com/37394, đến dòng 60, Email Page-IE, để tải xuống tập tin này.
Lãng quên E-Mail TT: Tôi giữ bản sao của tất cả e-mail quan trọng đã gửi đi nhưng 'bộ nhớ' của tôi cũng không ngon lành gì vì thế thỉnh thoảng lại quên lưu bản sao cần thiết.GQ: Bạn nên thiết lập để trình e-mail của mình lưu tất cả thư gửi đi. Trong Outlook Express.chọn Tools.Options.Send và đánh dấu chọn Save copy of sent messages in the 'Sent Items' folder. Trong Outlook, nhấn Tools.Options.Preferences.E-mail Options và đánh dấu chọn Save copies of messages in Sent Items folder. Trong Eudora, chọn Tools.Options.Composing Mail và đánh dấu chọn Keep copies.
Hãy gửi thông tin liên hệTT: Bạn thường phải hồi đáp e-mail theo cách truyền thống là dùng điện thoại. Tuy nhiên, để tìm số điện thoại của ai đó trong trình quản lý thông tin liên hệ hay sổ địa chỉ của e-mail là chuyện không 'sướng' chút nào.GQ: Đương nhiên là có cách dễ dàng hơn nhưng bạn phải được sự hợp tác của người gửi. Trình e-mail sẽ tự động dán 'chữ ký' (signature) của bạn vào cuối thư gửi đi. Chữ ký này rất đáng giá vì cho người nhận biết ngay người gửi. Chữ ký nên ngắn gọn, đầy đủ - không nên nhiều hơn 4 hay 5 dòng - tối thiểu phải có địa chỉ e-mail, số điện thoại và địa chỉ. Không nên đưa thêm những thứ như châm ngôn, thơ, trích dẫn...
Nỗi đau phần cứng Quản lý dữ liệu trên điện thoại di độngTT: Dù mọi công nghệ được đóng gói trong điện thoại di động thì tôi vẫn phải nhập từng số điện thoại vào.GQ: Cell Phone Data Transfer Suite giá 60 USD của DataPilot kết nối điện thoại di động với PC qua cổng nối tiếp hay USB (cả hai được bán kèm). Bạn có thể dùng phần mềm này để chuyển dữ liệu liên hệ từ Outlook sang hầu như mọi loại điện thoại di động. Chương trình cũng hỗ trợ Pocket PC và Palm; nó cũng làm việc với Outlook Express và Act. Nếu không dùng những trình quản lý thông tin liên hệ này, bạn có thể dùng trình quản lý sổ điện thoại của DataPilot; chi tiết tại www.datapilot.com.
Kết nối cho thẻ nhớ USB-FlashTT:  Tôi mua thiết bị lưu trữ flash, tuy rẻ, tiện lợi hơn hẳn đĩa mềm nhưng điều bực mình là cứ phải 'chui gầm bàn' để gắn vào, gỡ ra loại bộ nhớ USB này.GQ: Những loại dung lượng lớn thường có bán kèm luôn cáp USB nhưng những loại dung lượng nhỏ, rẻ tiền thì lại không có cáp. Bạn có thể ra các dịch vụ vi tính mua cáp nối dài (1,5-3m) với giá khoảng vài chục ngàn là có thể ung dung ngồi ngay trên bàn, thoải mái tháo ra gắn vào.
Tai nạn cáp nối TT: Màn hình của tôi thỉnh thoảng nhấp nháy và tắt. Tôi khởi động lại máy tính và nó làm việc tốt trở lại nhưng vài giờ sau lại bắt đầu nhấp nháy.GQ: Trước tiên bạn hãy kiểm tra cáp nối! Đừng khinh thường, vấn đề tương tự cũng thường xảy ra với modem: có lúc bạn loay hoay cả ngày để chẩn đoán bệnh cho kết nối internet qua đường quay số rồi sẽ phải kêu trời vì nguyên nhân là do cắm sai ngõ vào cho dây điện thoại trên modem. Vấn đề này không chỉ xảy ra với màn hình, modem mà còn có thể xảy ra với máy quét, máy in hay bất kỳ thiết bị nào kết nối với PC bằng cáp. Hãy gắn chắc chắn cả ở hai đầu, đừng quên vặn chặt các đầu nối.
Cấm tự động mở khay CDTT: Windows XP cứ khăng khăng đẩy đĩa CD-RW ra mỗi khi tôi ghi xong dữ liệu lên CD - cho dù tôi có muốn mở khay đĩa hay không.GQ: Bạn có thể giải quyết vấn đề chỉ với vài cú nhấn chuột: mở My Computer, nhấn phải lên ổ CD-RW, nhấn Properties. Recording, và bỏ chọn Automatically eject the CD after writing.
Chống mất điệnTT: Dù cho là cúp điện hay sét đánh thì việc mất điện đột ngột cũng không phải là chuyện đùa.GQ: Bạn nên trang bị bộ cấp điện dự phòng (UPS) - bình điện giữ cho PC tiếp tục chạy đủ thời gian để bạn tắt máy tính đúng quy trình. Loại UPS nhỏ giá khoảng 40 USD sẽ giữ cho máy tính chạy khoảng 5 phút đủ để bạn đóng tập tin, tắt ứng dụng và tắt máy. Để chọn loại phù hợp bạn có thể tham khảo bài 'UPS-Máy lưu điện' trên TGVT 09/2003, trang 113.
Điều chỉnh màn hình TT: Màu sắc trên màn hình LCD mới mua không đủ sáng và hình ảnh không nét như bạn nghĩ và dù đã điều chỉnh nhưng vẫn không thể thoả mãn.GQ: Nhà sản xuất màn hình chỉ cung cấp khả năng điều chỉnh hạn chế. Bạn có thể dùng tiện ích miễn phí DisplayMate của DisplayMate Technologies. Dù có từ 1991 nhưng nó vẫn rất tốt cho việc chỉnh độ nét, màu sắc, độ tương phải và rất nhiều thông số khác cho cả màn hình CRT và LCD. Hãy truy cập vào find.pcworld.com/37406 để tải tiện ích này.
Bực mình với âm thanh/Hình ảnhChuyển đổi tập tin âm thanhTT: Easy CD Creator của Roxio là một chương trình rất tuyệt nhưng nó lại chỉ chuyển đổi từng tập tin âm thanh.GQ: Thật vô lý nếu tốn thời gian tải xuống chương trình chỉ dùng để chuyển đổi một tập tin. Bộ chuyển đổi miễn phí DBpowerAMP Music Converter của Illustrate chuyển đổi tập tin .wav sang MP3 và ngược lại trong nháy mắt. Nhấn phải chuột vào tập tin nhạc trong Windows Explorer, chọn Convert To, và nhấn Mp3 hay Wave. Music Converter cho phép bạn chọn thư mục chứa tập tin kết quả, đổi tên tập tin này. Hãy vào www.dbpoweramp.com để tải xuống.
Canh đều âm lượng TT: Tôi tạo rất nhiều nhạc MP3 trên đĩa cứng từ bộ sưu tập nhạc CD. Vấn đề là có bản nhạc âm thanh muốn 'điếc lỗ tai' nhưng có bài lại quá nhỏ.GQ: Biện pháp là phải điều chỉnh âm lượng khi tạo nhạc MP3 trên đĩa, tính năng này có trong rất nhiều chương trình âm thanh. Tuy nhiên, khi bạn lấy âm thanh từ CD, vấn đề của âm thanh lại nằm ở chương trình chơi nhạc. Microsoft Windows Media Player sẽ chuẩn hoá (normalize) âm lượng của MP3 khi bạn chơi nhạc. Nhấn View.Enhancements.Crossfading and Auto Volume Leveling. Để giải quyết triệt để hơn, bạn có thể dùng tiện ích miễn phí rất mạnh MP3Gain để phân tích và chuẩn hoá âm lượng cho từng tập tin MP3 (find.pcworld.com/37412).
Quản lý chặt VideoTT: Tôi thường đánh vật toát mồ hôi với Windows Media Player.GQ: Đây là vấn đề định dạng của video số, mỗi định dạng đòi hỏi phải có bộ mã hoá/giải mã (codec) riêng. Bạn mở Windows Media Player, nhấn vào Tools.Options.Player, đánh dấu chọn vào Download codecs automatically. Thử xem lại video. Vẫn không được ư? Có thể bạn không có codec nào đó. Hãy dùng Windows Media Player 9 cho Windows XP hay phiên bản 7.1 cho Windows 98, Me và 2000. Truy cập vào find.pcworld.com/37415 để tải về phiên bản cần thiết.Thủ thuật: Nếu bạn xem video và chỉ nhận được thông báo 'thô bạo' là thiếu bộ codec cần thiết, hãy tải tiện ích miễn phí Gspot (find.pcworld.com/37424), để phân tích video và xác định đúng bộ codec cần thiết. Một khi đã có thông tin này hãy đến MovieCodec.com (www.moviecodec.com) và tìm trong bộ sưu tập codec.
Chặn Video trôi mất

TT: Tôi rất muốn lưu lại những tập tin video phát trên internet (dạng streaming) để xem lúc không kết nối internet nhưng dường như Windows Media Player thiếu tuỳ chọn này, kể cả những trình xem phim, nghe nhạc khác.
GQ: Hầu hết các tập tin video sẽ tự động lưu lên đĩa cứng của bạn trong khi bạn xem chúng trên trình chơi video. Nếu bạn biết cách tìm, đặt tên lại và xác định vị trí của tập tin muốn chơi, bạn có thể xem chúng bất kỳ lúc nào. Trong khi tập tin video đang chạy thì tên của tập tin thường xuất hiện trong thanh hiển thị tựa. Bạn cũng có thể tìm trên đĩa cứng tất cả những tập tin có phần mở rộng của video. Chọn Start.Find.Files or Folders (Windows 98), Start.Search.For Files or Folders (Me và 2000), hay Start.Search (XP). Sau đó, trong vùng 'Named' (Windows 98), hay vùng 'Search for files or folders named' (Me và 2000), hay vùng 'All or part of the file name' (XP), hãy nhập các đuôi mở rộng sau: *.avi,*.mpg,*.mpeg,*.asf,*.mov,*.rm,*.wmv.
Thủ thuật ở đây là tìm tập tin video ngay sau khi xem (chúng sẽ mất khi bạn xoá thư mục temporary Internet), vì thế hãy tìm theo ngày tháng. Trong Windows 98, chọn ngày tháng trong nhãn Date; trong Me và 2000, nhấn Search Options để thiết lập yêu cầu ngày tháng. Trong XP, nhấn When was it modified  và chọn Specify dates; mặc định là ngày hiện hành. Khi tìm thấy tập tin (thường có dạng tên tạm trong thư mục lưu thông tin đệm cho internet), đổi tên, chuyển sang vị trí mới và có thể nhấn đúp để mở nó. Xem thêm phần 'Công cụ cần thiết cho việc cứu hộ' để biết cách lưu phim Flash.
Video 'quậy' trình duyệtTT: Một vài tập tin video xem trong Window Media Player lại mở web site tôi không muốn truy cập đến.GQ: Nguồn gốc của sự phiền toái này là mã script HTML được nhúng trong nhiều tập tin Windows Media. Tiện ích miễn phí WMPopKill của Brett Bartholomew cho phép tắt/mở mã script của WMP. Chương trình này tự động tải xuống các bản sửa lỗi tương ứng với một vài phiên bản WMP. Truy cập find.pcworld.com/37430 để tải xuống.
SuperCookies đe doạ tính riêng tưTT: Bạn sẽ 'tá hoả' khi biết Windows Media Player dùng số ID của bạn để trao đổi thông tin của bạn với các web site.GQ: Để tắt tính năng theo dõi SuperCookie trong WMP 7 trở đi, chọn Tools.Options.Privacy. B ỏ chọn Allow Internet sites to uniquely identify your Player hay Send unique Player ID to content providers, tuỳ phiên bản, nhấn OK (hình 3). Để tìm hiểu thêm về SuperCookies, hãy vào find.pcworld.com/37433 để biết thông tin về tính riêng tư và vào find.pcworld.com/37436 để xem trình diễn về cơ chế hoạt động của SuperCookie.
Tắt trình chơi đa phương tiện TT: Mỗi khi Windows Media Player muốn truy cập internet, tường lửa của tôi (Zone Labs ZoneAlarm) lại cảnh báo. Mặc dù tôi đã đồng ý cho phép truy cập nhưng lần sau nó lại hỏi tiếp. Sao lại ngớ ngẩn vậy?GQ: Ngớ ngẩn? Không. Thông minh? Đúng. ZoneAlarm chỉ đơn giản thực thi nhiệm vụ đã được giao phó - giám sát bất kỳ thứ gì đi vào PC từ internet cũng như mọi thứ muốn đi ra ngoài. Bạn có thể để cho Windows Media Player kết nối internet và không bao giờ bị quấy nhiễu nữa bằng cách chọn Remember this answer the next time I use this program trên hộp thoại cảnh báo Alert của ZoneAlarm trước khi nhấn Yes (hình 4). Tuy nhiên, thành thật khuyên bạn là không nên làm thế. Windows Media Player là một chương trình 'vô lý', muốn giúp bạn tải xuống thông tin khi bạn nghe nhạc MP3s nhưng lại dùng định danh riêng để báo cáo cho web site của Microsoft những thông tin của bạn (xem 'Supercookies đe doạ tính riêng tư'). Để bảo vệ tính riêng tư của mình, bạn phải quyết định theo từng trường hợp cụ thể có cho chương trình này truy cập internet hay không. Nếu WMP muốn truy cập video bạn cần thì OK nhưng nếu cảnh báo xuất hiện khi bạn chạy một tập tin lưu trên máy tính thì hãy để ZoneAlarm khoá nó.
Ghi tập tin lên CD nhiều lầnTT: Lần đầu tiên dùng Windows XP thay vì phần mềm của hãng thứ ba để ghi CD, tôi mở Windows Explorer và chọn một số tập tin trong cửa sổ bên phải. Sau đó tôi thả chúng vào biểu tượng ổ đĩa CD-RW ở cửa sổ bên trái, nhấn chuột vào hộp thoại 'You have files waiting to be written to the CD' (bạn đang có những tập tin đang chờ để ghi lên CD) và chọn 'Write these files to CD' (ghi những tập tin này lên CD) trong cửa sổ CD Writing Tasks. Nhưng nếu tôi không muốn ghi CD ngay - ví dụ tôi muốn thêm một số tập tin nữa rồi ghi một lượt - thì không thể được.
GQ: Khi bạn kéo những tập tin đầu tiên vào biểu tượng ổ CD, hãy 'làm ngơ' thông báo xuất hiện (nó sẽ biến mất) và chỉ việc kéo thêm những tập tin tuỳ ý bạn. Khi đã sẵn sàng ghi CD, bạn chỉ cần mở My Computer, Windows Explorer, hay bất kỳ cửa sổ thư mục nào, nhấn phải chuột lên biểu tượng ổ đĩa CD-RW; chọn Write these files to CD (Bạn cũng có thể ghi những tập tin này bằng màn hình CD Writing Tasks: Nhấn phải chuột lên biểu tượng ổ CD, chọn Open, nhấn Write these files to CD). Nếu thay đổi ý định trước khi ghi đĩa, bạn chỉ việc mở màn hình CD Writing Tasks và chọn Delete temporary files.
Để biết chính xác tốc độ ổ CD?

TT: Tôi muốn biết ổ đĩa CD-ROM của tôi nhanh cỡ nào nhưng không thể biết được nếu tìm phía trước ổ đĩa. Thậm chí có mở thùng máy tính tìm bên trong cũng không có.GQ: Với tiện ích miễn phí Info Tool của Nero bạn có thể tìm thấy mọi thông tin cần biết về ổ đĩa và vài thứ khác. Tiện ích này cho biết chính xác tốc độ ghi, định dạng được hỗ trợ, trình điều khiển và phiên bản của phần mềm điều khiển.
Quái gở InternetKhông thấy mật mãTT: Internet Explorer tự động chèn mật khẩu của tôi vào đúng nơi yêu cầu khi tôi truy cập lại một web site đã từng truy cập. Tôi muốn biết mình đã dùng mật khẩu gì nhưng không sao nhớ được.GQ: Tiện ích miễn phí Asterisk Key của Lostpassword.com sẽ hiển thị mật khẩu ẩn giấu đàng sau những dấu sao nhưng bạn phải dùng thật cẩn thận và khôn khéo. Hãy vào find.pcworld.com/37451 để tải xuống.
Status Bar bí mật biến mất

TT: Internet Explorer 6 thỉnh thoảng bị mất thanh trạng thái ở cuối màn hình, tôi phải nhấn vào View.Status Bar để lấy lại thanh trạng thái.GQ: Để khắc phục, bạn mở một cửa sổ trong IE 5 hay cao hơn và nhấn View.Status Bar (nếu nó chưa được chọn). Nhấn phải chuột lên vùng trống trong thanh công cụ của IE và bảo đảm rằng đã đánh dấu chọn vào Lock the Toolbar. Nhấn giữ <Ctrl> và nhấn 'X' trong góc phải trên cùng của cửa sổ này để đóng lại. Mở Windows Explorer và bảo đảm rằng View.Status Bar được chọn. Nhấn phím phải lên vùng trống trên thanh công cụ của Windows Explorer và bảo đảm là Lock the Toolbars đã được chọn. Chọn Tools.Folder Options.View.Apply to all folders. Nhấn Yes để xác nhận và OK để đóng hộp thoại. Nhấn và giữ <Ctrl> và nhấn 'X' góc trên bên phải để đóng cửa sổ.
Cẩn thận với dạng Spam mớiTT: Tôi nhận được những quảng cáo tự bung ngay cả khi không truy cập Net.GQ: Quảng cáo dạng dịch vụ nhắn tin (Messenger Service) là những thông điệp dạng pop-up được đổ đến một loạt địa chỉ IP ngẫu nghiên. Nếu bạn dùng Windows 98 hay Me thì không cần lo lắng. Nhưng nếu bạn dùng Windows 2000 hay XP mà không có phần mềm tường lửa hay máy bạn không kết nối với một router có tường lửa bằng phần cứng thì bạn sẽ nhận được dạng quảng cáo này. Cách để chấm dứt chúng tạm thời là dùng màn hình điều khiển dịch vụ của Windows. Chọn Start.Run, gõ services.msc, và nhấn <Enter>. Trên khung bên phải, nhấn phải chuột vào Messenger và chọn Stop. Để có giải pháp triệt để, bạn phải tải xuống chương trình Shoot the Messenger của Gibson Research (find.pcworld.com/37454) vốn được thiết kế để loại trừ thư rác trong Windows Messenger nhưng nó cũng chặn được quảng cáo dạng trên.
IE quên chế độ toàn màn hìnhTT: Vì lý do gì đó mà Internet Explorer không luôn luôn nhớ là phải khởi động ở chế độ toàn màn hình.GQ: Tải xuống tiện ích miễn phí IE New Window Maximizer (find.pcworld.com/37460), nó sẽ tự động chuyển cửa sổ IE mới sang chế độ toàn màn hình. Chương trình cũng cho bạn đóng hay giấu tất cả cửa sổ Internet Explorer bằng tổ hợp phím do bạn chọn.
Thay đổi thiết lập mạng TT: Tôi phải thay đổi cấu hình mạng trên máy tính xách tay của mình mỗi khi kết nối vào mạng LAN của khách sạn hay mạng của khách hàng. Ngoài việc phải mang theo sổ tay ghi cấu hình mạng, sau khi thực hiện xong những thay đổi tôi còn bị Windows bắt phải khởi động lại.
GQ: Liệu pháp cho sự rối loạn đa mạng là NetSwitcher của J.W. Hance, trình chia sẻ 14 USD này cho phép bạn lưu một số cấu hình mạng khác nhau. Khi kết nối vào một mạng mới, bạn hãy bổ sung và lưu lại cấu hình mạng mới này. Một khi đã về nhà, chỉ cần vài cú nhấn chuột là bạn có thể phục hồi cấu hình mạng cũ của mình. Trong khi Windows luôn đòi phải khởi động lại, NetSwitcher chỉ yêu cầu khởi động lại trong trường hợp bạn có sửa đổi thông số nào đó mà nó không thể được kích hoạt nếu không khởi động lại. Truy cập vào find.pcworld.com/37463 để tải về bản dùng thử 30 ngày của NetSwitcher.
Thủ thuật: Nếu gặp trục trặc với kết nối mạng, bạn hãy tận dụng công cụ chẩn đoán mạng toàn diện đến ngạc nghiên được giấu rất sâu trong phần trợ giúp (Help and Support Center) của Windows XP. Nhấn Start.Help and Support, chọn Networking and the Web, nhấn Fixing networking or Web problems phía bên trái và sau đó chọn Diagnose network configuration and run automated networking tests ở phía bên phải. Chọn Scan your system. Để chắc ăn, bạn có thể nhấn vào Set scanning options và đánh dấu chọn tất cả các hộp chọn trước khi chạy Scan your system.
Trần QuânPC World Mỹ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét